“Những kiến thức thu nhận được trong nhà trường là di sản quý báu của những thế hệ đã qua. Trách nhiệm của chúng ta là phải bổ sung các tri thức đó và truyền lại cho những thế hệ sau, vì bằng cách đó, chúng ta, những người sẽ chết, sẽ thành bất tử trong những sự vật còn tồn tại mà mọi người đã cùng chung sức tạo nên”.Không có phong cách khoa học trong học tập, thì năng suất học tập thấp, kiến thức tiếp thu không vững chắc và khó ứng dụng kiến thức trong thực tế.
Với cuộc cách mạng khoa học và kỹ thuật hiện nay, khối lượng kiến thức khoa học tăng theo cấp số nhân và khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Con người không nâng cao được năng suất lao động và chất lượng học tập sẽ luôn lạc hậu với thời đại.
Muốn nâng cao năng suất và chất lượng học tập phải có phong cách khoa học trong tất cả các khâu: nghe giảng, ghi chép, tự học, thực tập, làm bài và viết báo cáo, thuyết trình…
Theo quan điểm thông tin, học tập là một quá trình thông tin gồm các khâu: thu tin, lưu trữ tin và xử lý tin.
Trong đời sống hàng ngày, quá trình thông tin chiếm tới hai phần ba thơi gian thức của con người, trong đó viết chiếm 9 phần chăm, đọc 16 phần trăm, nói 30 phần trăm và nghe 45 phần trăm.
1. Nghe giảng
“Nghe là một nghệ thuật”
Nghe là một quá trình thu tin chiếm tới 45 phần trăm thời gian thức của người. Phải biết cách nghe mới thu được nhiều kiến thức trong thời gian quy định.
Yêu cầu ngừời nghe là phải biết được ý đồ của người giảng, nắm được ý chính của bài giảng, biết suy nghĩ về lập luận của người giảng và phát hiện những vấn đề mới trong khi nghe giảng……
Muốn như vậy, phải biết tập trung chú ý vào bài giảng. Trong giờ sinh vật học, thầy giáo đang giảng về định luật di truyền của Menden, bỗng nhiên ta nhìn qua cửa sổ. Mặt trời chói chang trên nền trời xanh thắm. Gió thổi mát rợi. Ta nghĩ, lan man đến cuộc đi chơi ngoài trời nhưng lai chợt nhớ rằng đang ở trong giờ sinh vật học. Ta nghe lõm bõm được vài thí dụ chứng minh cho định luật. Đột nhiên ta ngĩ tới trận bóng đá tuần sau của các đội Công an và Thể công và liên tưởng tới vài cầu thủ nổi tiếng. Sau một, hai phút, ta lai trở về với định luật Menden. Hết giờ lên lớp, ta không có một ý niệm gì chính xác về định luật Menden cả do đã không tập trung chú ý vào bài giảng.
Các kiến thức trong một bài, cũng như các bài trong một chương, là một chuỗi các chân lý, cái nọ nảy sinh từ cái kia. Có tập trung chú ý, ta sẽ lần từ khâu này sang khâu khác một cách dễ dàng. Nếu không tập trung, một vài khâu sẽ gián đoạn, phải tốn công và thì giờ mới nối lại được thành chuỗi cũ. Tập chung chú ý sẽ làm bài học dễ hiểu, dễ nhớ hơn. Tập trung chú ý còn giúp trí tưởng tượng phát triển và – điều quan trọng đối với thanh niên – là giúp việc loại bỏ ấn tượng mệt mỏi, không hứng thú của một tư duy vô trật tự, và vì thế sẽ kích thích tinh thần ham học hỏi, ưa sưu tầm kiến thức của mỗi người. Tập trung chú ý, ta sẽ thấy bài giảng nào cũng đầy lý thú.
Tập trung chú ý bài di truyền, ta thấy là điều kiện nghiên cứu của Menden cũng đơn giản. Đối tượng nghiên cứu dễ kiếm, thí nghiệm dễ theo dõi, phòng thí nghiệm chỉ là nhà tù. Trong hoàn cảnh như vậy mà ông tổ của di truyền học đã có những phát minh xuất sắc cho khoa học. ta liên tưởng ngay là nếu chịu khó một chút, ta cũng có thể lặp lại thí nghiệm của Menden và biết đâu không có những phát kiến mới.
Rõ ràng sự tập trung chú ý vào bài giảng di chuyền gợi cho ta những suy nghĩ mới, ý niệm mới, mần mống của những phát kiến mới.
Chính nhờ tập trung chú ý mà anh sinh viên trẻ tuổi mới phát hiện ra sự chứng minh sai của viện sỹ hoá học Sêmiônốp trong một buổi thuyết trình về khoa học.
Người ta đã nói rất đúng là tập trung chú ý sẽ mở cửa cho phát minh khoa học.
Theo như trên, nghe giảng muốn có năng suất cao nhất về thu hoạch kiến thức, bộ não phải làm vuệc tích cực chứ không chỉ ghi nhận kiến thức một cách thụ động, thông qua việc thu âm cũng thụ động của cái tai.
Người ta đã thí nghiệm thấy nếu tập trung chú ý, hiệu suất tiếp thu đạt tới 50 phần trăm.
Phải tập luyện kết hợp ba khả năng: nghe, xem và ghi. Trí nhớ âm thanh sẽ được kết hợp với trí nhớ hình ảnh, ấn tượng của kiến thức dễ ăn sâu vào trong vỏ não. Thoạt đầu, thì hai loại trí nhớ này hoạt động tách rời, chú ý nghe thì quên ghi hay trái lại. Nhưng chỉ sau một thời gian tập luyện, ai cũng có thể kết hợp các khả năng này.
Hiện nay, nhiều cách nghe giảng không khoa học còn phổ biến. Người nghe, hoặc cặm cụi ghi chép mà không hiểu người giảng nói gì, hoặc suy nghĩ mung lung về bài giảng, hoặc nghĩ đến việc khác. Kết quả là sau đó, đầu óc người nghe không có ý niệm rõ ràng hoặc có một mớ hỗn độn các ý niệm, hoặc không có ý niệm gì trong đầu. Đây quả là sự lãng phí lớn về thời gian và sức lực của cả người giảng lẫn người nghe.
Khả năng tập trung không phải bẩm sinh. Thuộc tính của động vật là phân tán tư tưởng, con thú chỉ tập trung chú ý khi rình mồi hay lẩn tránh kẻ thù, tức là trong những tình huống nhất định. Tập trung chú ý theo ý muốn là bản lĩnh của con người, chỉ thành hình sau quá trình rèn luyện. Ở thiếu nhi, tư tưởng thực chất là phân tán. Vì vậy rèn luyện khả năng tập trung cần được quan tâm ngay từ tuổi vỡ lòng.
Trong trường, về mặt này có thể có hai loại học sinh: loại chăm chỉ, quen tập trung chú ý vào một việc nhất định đang phải làm và loại phân tán chú ý đồng thời vào nhiều vấn đề. Loại thứ nhất thường xuyên xếp hạng giỏi, còn loại thứ hai thường xếp hạng yếu.
Học sinh yếu cũng có hai loại, loại không chăm chỉ về bất cứ môn học gì và loại chỉ tập trung vào những môn mình thích. Nếu bạn thuộc loại thứ nhất, thì đây là một hiện tượng khá nguy hiểm, vì lúc ở nhà trường ta đã không chú ý tới học hành thí sau khi ra trường, cũng sẽ không chú ý tới bất cứ một công việc gì. Và tiền đồ của những người như thế không sáng sủa lắm, hoặc anh ta là kẻ ăn bám xã hội, hoặc là một người lao động không thể nào trở thành tiên tiến.
Ngay nếu thuộc loại học sinh thứ hai, ta cũng phải chú ý rèn luyện để có thể tập trung vào những môn học mình không thích. Không phải ai sau khi ra trường cũng chọn được việc làm phù hợp sở thích. Nếu thiếu thói quen tốt là tập trung chú ý vào mọi việc từ nhỏ tới lớn, từ việc lạ tới việc quen, anh cũng không thể trở thành người lao động tiến bộ trong nghề nghiệp của mình.
Hơn nữa, rèn luyện tập trung vào những môn không thích, ta sẽ đồng thời rèn luyện được nghi lực, chủ động tập trung khi cần thiết. Đây là khả năng quý báu giúp con người thành công trong mọi việc.
2. Thực tập
“Không bao giờ nhìn sư kiện một cách hời hợt. Đừng biến mình thành người lưu trữ sự kiện. Hãy đi sâu vào dự kiện…”
Thực tập là hình thức học tập không thể thiếu ở các trường, nhất là ở trường đại học. Thực tập có thể tiến hành ở phòng thí nghiệm, trên thực địa, hay ở các cơ sở nghiên cứu, sản xuất…
Thực tập nhằm mục đích rèn luyện thao tác kỹ thuật nhằm củng cố và kiểm tra kiến thức lý thuyết đã học và để tập dượt ứng dụng kiến thức khoa học trong thực tế. Ở trường đại học tổng hợp, người ta thường chia ba loại thực tập để kiểm nghiệm kiến thức và thực tập sản xuất là để thử ứng dụng kiến thức trong thực tế.
Những tựu trung, loại thực tập nào cũng gồm hai quá trình, quan sát và thí nghiệm, quan sát là nhìn một cách chú ý và hơn nữa chú ý có định hướng. Nhìn thật dễ mà quan sát thật khó vì phải tập luyện. Có nhà khoa học đã nói: muốn học “nhìn” một sự vật phải tập luyện hàng năm.
Trước hết, quan sát phải biết chọn lọc theo yêu cầu của chủ đề. Đối với cùng sự vật, nếu yêu cầu chủ đề khác nhau thì mặt quan sát cũng khác. Thí dụ, trong thực tập về sinh thái học thực vật, ta phải “nhìn” khu rừng là một quần xã thực vật, chứ không “nhìn” rừng là một tập hợp 10.000 loại cây khác nhau, như trong thực tập về phân loại thực vật.
Hơn nữa quan sát thực hiện bằng giác quan của con người, nên có phần hạn chế nhất định, độ phân tích của giác quan mỗi người mỗi khác. Vì thế, phải quan sát nhiều lần và mỗi đối tượng phải được quan sát bởi nhiều người. Có như vậy, nhận xét về sự vật mới tăng phần chính xác.
Thí dụ, trong thực tập về động vật học, khi giải phẫu con vật, ta phải tham khảo thêm mẫu vật của người bên cạnh và tự mình cũng phải giải phẫu nhiều mẫu vật để so sánh. Những chi tiết giải phẫu lặp lại nhiều lần mới có độ tin cậy đáng kể.
Thí nghiệm là tác động vào sự vật hiện tượng và theo dõi sự biến đổi tương ứng của chúng. Thí dụ, bỏ giấy quì xanh vào dung dịch axít thấy giấy biến màu đỏ.
Nhưng thí nghiệm nào cũng không dừng ở chỗ định tính mà đều tiến tới chỗ định lượng. Người ta không bằng lòng với việc kiểm tra dung dịch xem có axit hay không, mà còn ước lượng độ axít của nó bằng khái niệm PH. Như vậy, kết quả thí nghiệm mới có ý nghĩa. Nói tới độ axit của dung dịch, phải làm thí nghiệm để xác định PH của nó là 6,5 hay 4,…
Vì thế, thực chất nội dung của thí nghiệm là cân, đo, đong, đếm, tức là ước tính đại lượng của tính chất đối tượng nghiên cứu.
Làm thí nghiệm cũng phải lập lại nhiều lần và bởi nhiều người. Tuy nhiên cùng đối tượng nhưng điều kiện thí nghiệm trong thời gian và không gian không phải hoàn toàn in nhau.
Thí dụ, trong thực tập sinh lý học động vật, xác định thành phần huyết cầu của máu cũng phải tiến hành vài lần. Nhìn sai ống chia độ, đếm sai trong kinh hiển vi không phải hiếm. Tăng số lần thí nghiệm sẽ làm giảm sai số trong việc này.
Ngoài ra, thao tác thi nghiệm phải cẩn thận, tỉ mỉ, chính xác. Sự vật, hiện tượng trong tự nhiên không phải bền vững mà biến đổi tính chất từng giờ từng phút. Có biến đổi ta nhận thấy bằng giác quan thường, có biến đổi tế nhị tới mức giác quan bình thường không cảm thấy. Thí dụ, ta có thể nhận biết thay đổi nhiệt độ và độ ẩm không khí, từ mùa này sang mùa khác, nhưng không dễ dàng nhận biết biến đổi trong một ngày, nếu không có nhiệt kế và ẩm kế.
Trong thực tập giải phẫu động vật, chỉ một nhát dao hay nhát kéo đưa quá tay cũng có thể làm đứt dây thần kinh hay huỷ hạch thần kinh của con vật.
Có những phản ứng hoá học, chỉ cần tăng thêm vài giọt thuốc thử là đã biến đổi tính chất.
Vì vậy, khi làm thí nghiệm phải theo đúng lời chỉ dẫn. Trong khi đó đếm phải rất cẩn thận, tỉ mỉ để có thể tin chắc rằng mình đã không đếm sai, đo sai và phải ghi số liệu vào sổ một cách trung thực không thể bớt. Có nhà khoc học đã nói: Tính chính xác của con số là linh hồn thực sự của khoa học.
Trong cả quan sát và thí nghiệm phải tập trung chú ý vào sự vật và hiện tượng. Sự vật và hiện tượng trong tự nhiên không phải bất biến mà thay đổi rất nhanh. Nhiều mặt của hiện tượng chỉ thoáng qua, nếu khong tập trung chú ý, ta sẽ không nhận biết. Tập trung chú ý sẽ giúp ta ghi được những mặt của sự vật không thấy rõ, những mặt của hiện tượng gần như không đáng kể đối với con người bình thường nhưng lại có ý nghĩa quan trọng đối với khoa học.
Từ xưa tới nay, đã biết bao người làm thịt ếch để ăn nhưng không phát hiện được điều gì lạ. Phải đợi tới nhà sinh lý học Ganvani. Vì quan tâm tới sức khoẻ của bà vợ ốm, ông tự làm thịt ếch để lấy đùi nấu cháo cho người bệnh. Với thao tác cẩn thận của nhà giải phẫu học, với sự tập trung chú ý vào công việc, ông đã phát hiện ra hiện tượng điện sinh học (hiện tượng Ganvani) nổi tiếng trong sinh lý học.
Công việc chuẩn bị tiêu bản thực tập phải được chú ý đặc biệt, theo đúng quy trình kỹ thuật. Không coi trọng điều này, tiêu chuẩn sẽ không phản ánh đúng trạng thể khách quan, dẫn tới sai lầm trong quan sát. Thí dụ, nhiều tiêu bản hiển vi có hình giả tạo, do cách thức nhuộm tiêu bản không chu đáo, làm ngườu nghiên cứu có nhận xét sai lệch về cấu tạo đối tượng.
Khi vẽ các tiêu bản thực tập vào giấy, phải trung thực, phản ánh đúng tình trạng tiêu bản. Tiêu bản mẫu và hình vẽ mẫu chỉ có tính chất tham khảo. Chủ yếu phải so sánh tiêu bản mình làm với tiêu bản mẫu và hình vẽ mẫu, tìm điểm giống nhau và điểm sai khác nhau, suy nghĩ tìm nguyên nhân của sự sau khác do kỹ thuật hay do đặc trưng của tiêu bản…
Chính bằng cách này, đôi khi ta sẽ phát hiện những chi tiết bất ngờ, những kiến thức mới, nhưng ít nhất cũng rút kinh nghiệm được về kỹ thuật chuẩn bị tiêu bản của bản thân. Chuẩn bị tốt, theo đúng quy trình, tiêu bản sẽ rõ ràng, dễ quan sát.
Khi làm thực tập, dụng cụ, hoá chất phải sắp xếp có thư tự nhất định, để khi cần tới thứ gì, không mất thì giờ tìm kiếm.
Góc làm thực tập phải sạch sẽ, vệ sinh. Điều này sẽ góp phần bồi dưỡng đầu óc minh bạch của người trẻ tuổi. Không thể nào sàng tạo với một bộ não lôn xộn, luộm thuộm.
Hiện nay, trong thực tập ở phòng thí nghiệm hay trên thực địa, nhiều sinh viên còn có tính qua loa, đại khái, không tập trung chú ý vào công việc, từ khâu chuẩn bị đối tượng quan sát, thí nghiệm tới khâu viết thu hoạch.
Không ít người ngại việc, hoặc quá chủ quan, không muốn lặp lại quan sát và thí nghiệm nhiều lần.
Kết quả là số liệu thu được không có độ tin cậy đáng kể. Giá trị của các kiến thức đó giảm hẳn. Chúng không những không cho ta những hiểu biết chắc chắn, không giúp ta phát hiện những kiến thức mới, mà còn dẫn tới tác phong tuỳ tiện, làm ẩu, hoàn toàn xa lạ với người lao động có trách nhiệm.
Tính cẩn thận, tỉ mỉ, chính xác, khả năng tập trung chú ý không phải bẩm sinh mà phải được rèn luyện từ tuổi thơ ấu. Cha mẹ và thầy giáo có tác dụng quan trọng trong việc rèn luyện này. Giao cho các cháu việc gì, phải hướng dẫn thao tác tỉ mỉ và theo dõi sát việc thực hiện.
Nếu gọt bút chì, hãy chú ý gọt cẩn thận như người hoạ công lành nghề. Nếu đóng vở, hãy chú ý đóng buộc như một thợ đóng sách chuyên nghiệp.
Một nhà giáo dục học, có nêu một phương pháp rèn luyện khả năng tập trung chú ý như sau:
Hãy cầm một bông hoa, quan sát khoảng 5 phút rồi mô tả nó một cách đầy đủ, không nhìn lại nó. Muốn thế, ta cầm bông hoa, ngắm nó và tập trung chú ý vào các chi tiết.
Ta chú ý tới hình dạng cánh hoa, đài hoa, nhụy hoa, màu sắc, hương thơm… trong khi tập trung quan sát các bộ phận của hoa, không ai có thể làm phân tán sự chú ý này. Như vậy, chỉ trong 5 phút, ta đã tập trung toàn bộ trí tuệ vào đối tượng quan sát.
Cách thức tập trung vào một ý niệm, một quyết định, một phán đoán, một công thức cũng như vậy. Ta sẽ suy nghĩ về mỗi vấn đề dưới tất cả phương diện. Ý nghĩ nào hiện ra trong óc mà không liên can trực tiếp tới ý niệm chính, sẽ được gạt bỏ tức khắc.
3.Nghị lực kiên trì
“Chỉ một số ít người trên trái đất này có thể hiểu được sự căng thẳng đầu óc ghê gớm và trước hết là sự lao động quên mình mà không có nó thì những sáng tạo của trí tuệ mở những con đường mới cho khoa học không thể nào thực hiện được…”
Nghiên cứu khoa học đòi hỏi nhiều nghị lực. Phải tập trung tất cả sức manhj tinh thần và thể chất cho khoa học nếu muốn thành công.
Thiên nhiên không dễ dàng vén màn bí ẩn cho người nghiên cứu. Phải tiến hành hàng ngàn quan sát, thí nghiệm. Rồi phải xử lý hàng vạn số liệu. Công việc này rõ ràng đòi hỏi một nghị lực rất lớn.
Bộ Tư bản là một trong hai công trình khoa học vĩ đại của thế kỷ XIX – công trình kia là của Đácuyn về nguồn gốc của loài vật – đã buộc Mác vượt qua khó khăn vật chất và tinh thần trong hơn 30 năm. Ông có nói một câu đại ý: không có con đường đế vương cho khoa học và chỉ ai không sợ leo trèo mệt nhọc trên con đường dốc hiểm trở – tuy có người dẫn đường rất giỏi – mới có may mắn tới được đỉnh cao sán lạn của khoa học.
Người ta kể lại, Pie và Mari Curi đặt kế hoạch lọc chất Radium từ quặng Pechblende để chứng minh cho giới khoa học là chất này có thật, Mari đã phải làm việc trong 45 thành liền, “tại phòng thí nghiệm”. Đây là một nhà chứa xe, thềm đất, nóc kính đã vỡ, khi mưa, để chảy nhỏ giọt.
Bà phải ngoà hàng yến quặng bằng tay, gạn quặng nóng chảy – mà hơi bốc lên làm họ sặc sụa và chảy nước mắt nước mũi – từ vại này sang vại khác.
Năm 1902, giới khoa học mới được thấy 10 gam radium nguyên chất lọc từ một tấn bã quặng. Phát minh ra radium, chất phóng xạ nguyên chất đầu tiên, gây một cuộc cách mạng thật sự trong khoa học.
Nghi lực phi thường của nữ bác học Mari Culi đã dẫn bà tới đỉnh cao sán lạn của khoa vật lý học.
Năm 14 tuổi, nhà toán học Pôngtriaghin gặp một tai nạn bị mù hai mắt. Nhưng cậu rất thích toán học nên kiên trì đền trường nghe giảng và về nhà tự học với sự giúp đỡ của mẹ. Học xong lớp 10, cậu vào học ở đại học tổng hợp. Sau khi tốt nghiệp, được giữ lại ở trường làm thầy giáo. Năm 30 tuổi, được bầu làm viện sỹ viện hàn lâm khoa học Liên Xô. Hiện nay là một trong những nhà toán học xuất sắc của thế giới.
Kèm với nghị lực là sự kiên trì. Kiên trì cần thiết cho mọi thành công. Không có việc gì thành công ngay một cách trọn vẹn.
Giải quyết một việc cũng tựa như người đi đường có nhằm một đích nhất định. Muốn tới đích, trên đường đi, ta phải kiên trì vượt các chướng ngại vật.
Thật là nguy hiểm nếu người ta chỉ muốn có kết quả quá nhanh, qua trực tiếp.
Kiên trì càng rất cần cho lao động khoa học. Muốn nghiên cứu thành công, phải hiểu biết, tìm tòi nhiều. Sự hiểu biết cặn kẽ, sự chuyên cần và sự kiên trì sẽ giúp ta xoá bỏ được những định kiến sai lầm, bảo toàn được chân lý tìm thấy.
Niutơn, khi trả lời câu hỏi nhờ đâu ông đi tới được định luật vạn vật hấp dẫn, đã nói: Đó là do tôi thường xuyên chăm chú theo dõi đối tượng nghiên cứu của mình và kiên tâm chờ đợi, từ khi sự việc bắt đầu tới khi sự việc được sáng tỏ dần và trở thành hoàn toàn rõ ràng.
Paxtơ có nói với thanh niên về công trình của mình: Chẳng có thiên tài đặc biệt nào đâu, chỉ có lao động cần cù, kiên trì cố gắng, người ta mới có thể đạt được những cái gì đẹp đẽ và cao cả. Đấy là tất cả bí quyết mà tôi đã tìm thấy trong những kết quả nghiên cứu của mình.
Nhà hoá học Mendêliép cũng có một câu đầy ý nghĩa: Tôi có phát minh không phải nhờ thiên tài mà do làm việc cả đời không nghỉ.
Ngành khoa học nào cũng cần tới sự kiên trì. Một tư tưởng nào cũng là sản phẩm của một lao động kiên trì chứ không phải là một sự thích thú lập luận phô trương. Tư tưởng phải là một cái gì cao hơn dục vọng và bản năng. Không co lao động tận tâm, không thể vươn tới tầm cao của tư tưởng.
Có ngành khoa học còn cho kiêm trì là một điều kiện tiên quyết để tránh để thành công. Muốn chọn một giống lúa mới, phải cần tới hàng chục năm lao động và chờ đợi, phải tiến hành hàng triệu kiểm tra.
Đối với nhà khoa học chọn giống, người ta thường đặt ba yêu cầu: giành cả đời người, ở nguyên một chỗ và phải sống lâu.
Có kiên trì trong khoa học mới giữ vững được tuổi được tuổi trẻ sáng tạo suốt cả đời. Tuổi trẻ sáng tạo không tuỳ thuộc tuổi trẻ vật chất. Có người chỉ khoảng 30 tuổi đã mất tuổi trẻ sáng tạo, mà có người giữ được nó tới lúc cuối đời.
Điều cơ bản là duy trì được tò mò tìm hiểu của tuổi thơ và không cho phép được nghỉ ngơi trên những thành tích quá khứ.
Nhà bác học Mari Culi được giải thưởng Nôben về vật lý học năm 1903, lúc bà 35 tuổi, tới năm 1911, lại được giải thưởng Nôben về hoá học (trong lịch sử, ít ai có thể được giải Nôben 2 lần), và hai tháng trước khi chết – bà mất tháng 7- 1934 – bà còn tới phòng thí nghiệm làm việc, còn sửa bản thảo của một công trình khoa học, còn phụ đạo cho học trò.
Nhà vi khuẩn học Vinagratxki, năm 97 tuổi, trong ba tháng cuối cùng của cuộc đời, vẫn tiếp tục chữa bạn thảo của công trình nghiên cưu.
Kiên trì là luôn giữ vững nhiệt tình trong nghiên cứu, không nản lòng vì thất bại, không nôn nóng về kết quả nghiên cứu và là chịu đựng gian khổ về tinh thần và vật chất vì sự nghiệp khoa học.
Người nghiên cứu nào cũng phải luôn giữ vững nhiệt tình trong lao động khoa học.
Sự hiểu biết là vĩnh viễn và vô cùng, cũng như sự vô cùng tận của thiên nhiên. Kiến thức cũng tựa như một khối tròn và khôi tròn càng lớn thì càng có nhiều điểm tiếp xúc với vô tận. Vì vậy, không có kết luận khoa học nào đã kết thúc. Mỗi kết quả khoa học chỉ là thanh tựu có tính chất quá độ và đều đặt ra những vấn đề mới cần giải quyết. Cuộc chiến đấu lâu dài với thiên nhiên nhằm tích luỹ kiến thức sẽ không bao giờ chấm dứt.
Những nhà khoa học chân chính phải không ngừng tiến hoá và không ngừng tìm tòi kiến thức.
Vì vây, nhà khoa học nào cũng phải lớn lên trong suốt đời mình bằng cách khắc phục bản thân mình. Có lao động kiên trì mới liên tục lớn lên, liên tục tiến hoá như thế.
Theo lời nhà toán học Laurentiép, muốn trở thành bác học, trước hết phải rèn cho mình khả năng làm việc thật nhiều. Trong hoạt động sáng tạo, cái chính nhât là làm việc liên tục kiên trì hàng tháng, hàng năm, thậm chí hàng chục năm, phấn đấu để giành mục tiêu đã định. Phải tìm tòi không mệt mỏi các con đường để giải quyết vấn đề, đối với nhà toán học thì thử đi thử lại hàng ngàn con đường để tìm lấy con đường gần nhất, còn đối với nhà khoa học thực nghiệm, thì thử đi thử lại hàng ngàn kiểu phối hợp khác nhau, cơ cấu khác nhau.
Trong một bức thư gửi cho bạn, nhà toán học Gausơ đã viết: Có thể là bạn hiểu được tâm trạng của tôi về cái định lý toán học tôi đã cố chững minh mà không được… Trong suốt 4 năm, ít có tuần nào tôi không suy nghĩ về cách giải bài toán đó, nhưng tất cả đều vô hiệu. Cuối cùng, ngày gần đây, tôi mới đạt được kết quả.
Đây là tâm sự của một “thần đồng” về toán ở thế kỷ trước. Khi lên 7 tuổi, Gausơ đã làm được phép tính cộng 100 con số đầu tiên với một tốc độ rất nhanh.
Nhà vật lý học Êđixơn, người có nhiều phát minh nhất ở đầu thế kỷ XX (khoảng 1100 phát minh), đã phải thực hiện tới 8000 thí nghiệm mới tìm ra sợi tóc của bóng đèn thông dụng hiện nay, và đã làm tới 50000 thí nghiệm để thay thế ắc quy chì bằng ắc quy kiềm, gọn nhẹ hơn.
Ông phải thường xuyên làm việc trong phòng thí nghiệm 18 -20 giờ mỗi ngày.
Ông thường nói: Trong mỗi phát minh khoa học, chỉ có một phần trăm là nhờ thiên tài, còn 99 phần trăm là lao động, lao động cực nhọc.
Kiên trì còn là không lản lòng vì thất bại.
Trong quá trình tìm tòi cái mới, không sao tránh được thất bại. Nhưng nhà khoa học chân chính không bao giờ nản lòng. Chính thất bại đó giúp ta kiểm tra được con đường đang đi, phương hướng đang phát triển.
Phân tích thí nghiệm thất bại nhiều khi còn dẫn tới phát minh quan trọng.
Từ lâu, nhà sinh học Cơritxian đờ Đuvơ nghiên cứu các vấn đề xoay quanh bệnh đái tháo đường. Một hôm khi chiết xuất men của tế bào gan chuột để làm thí nghiệm, ông nhận thấy men này lúc có lúc không trong dịch chiết. Đi sâu vào tìm hiểu nguyên nhân của thí nghiệm thất bại, ông phát hiện ra là chất men được chứa trong một túi nhỏ của tế bào mà ông đặt tên là Lysosom.
Tuỳ theo Lysosm vỡ hay lành mà nước chiết có chứa men hay không.
Sau khi tập trung toàn viện để nghiên cứu Lysosom về mặt, ông tìm thấy chức năng của vật thể này trong sự tiêu hoá nội bào, điều mà khoa học chưa biết. Phát minh của Đờ Đuvơ đã mở đường cho sự phát triển của các nghành sinh học tế bào và vi sinh vật học hiện đại, và đã dành cho ông giải thưởng Nôben 1974 về sinh lý học.
Kiên trì là không nôn nóng về kết quả nghiên cứu.
Trên con đường khoa học, nếu nóng vội thường đi tới kết luận quá sớm không đủ cơ sở để thuyết phục. Hiện nay, những vấn đề “dễ ăn” trong khoa học đều đã được giải quyết từ hàng thế kỷ. Còn lại là những vấn đề “hóc búa” đòi hỏi nhiều công sức.
Người nghiên cứu chỉ có thể công bố kết quả phát minh của mình khi bản thân đã đưa ra hết các giả thuyết phủ định kết luận đó. Muốn như vậy, phải đợi hàng tháng, thậm chí hàng năm, để làm lại hàng trăm, hàng ngàn thí nghiệm kiểm tra nhằm tìm nguyên nhân của kết quả thí nghiệm trái ngược.
Năm 1831, Đácuyn bắt đầu thu thập số liệu khoa học. Tới năm 1842, tức sau 11 năm, ông mới thông báo 35 trang về học thuyết nguồn gốc loài vật, hai năm sau, công bố 230 trang. Và trong 10 năm tiếp theo, ông vẫn tiếp tục thu thập số liệu để kiểm tra học thuyết của mình.
Tới năm 1684, Niutơn đã giải quyết xong bài toán hấp dẫn và đưa bản thảo cho nhà thiên văn học Halây xem. Halây có khuyên nên công bố ngay, nhưng Niutơn không đồng ý vì cho rằng công trình chưa hoàn chỉnh.
Ông lao động thêm hai năm và tới năm 1687 mới công bố công trình “Những nguyên lý của triết học tự nhiên”, trong đó, không chỉ đưa ra định luật hâp dẫn vũ trụ với cơ sở khoa học của nó, mà còn cả toàn bộ lâu đài vật lý học của hai thế kỷ sau.
Nhà khoa học chân chính nhiều khi còn phải kiên trì chịu đựng gian khổ về tinh thần.
Trong lịch sử khoa học, những phát minh lớn thường không được đánh giá đúng mức bởi giới khoa học đương thời. Hoặc công trình bị lãng quên một cách lặng lẽ, hoặc nếu mâu thuẫn với chính kiến đương thời thì bị công kích kịch liệt.
Hiện nay, nhà di chuyền học Menden được coi là ông tổ của ngành di truyền học hiện đại và là một trong hơn 10 nhà bác học vĩ đại nhất của thế kỷ XIX.
Nhưng ít người biết là năm 1865 và 1869, ông đã phát minh ra định luật di truyền và thông báo cho giới khoa học, trong một công trình 73 trang. Nhưng chẳng ai để ý đến. Phải đợi tới 1900, tức 30 năm sau, người ta mới lưu tâm lặp lại thí nghiệm của ông và xác nhận công trình.
Gần đây, có thể lấy thêm thí dụ của nhà bác học Xioncôpxki, người sáng lập ra khoa học tên nửa. Trong không khí lãnh đạm và không hiểu của giới khoa học đương thời về phát minh khoa học của mình, ông vẫn kiên trì nghiên cứu thí nghiệm và viết báo cáo. Ông có ghi trong hồi ký: cả cuộc đời tôi đã dành cho suy tưởng, tính toán, thực hành và thi nghiệm.
Phải đợi tới ngày cuối của cuộc đời, người đương thời mới đánh giá nổi sự đóng góp của ông cho ngành khoa học vũ trụ với 600 công trình khoa học.
Hiện nay, tượng ông được đặt ở thủ đô Matxcơva và ở Kaluga, nơi ông sống và dạy học; tên ông được khắc ở đài kỷ niệm ngày phóng vệ tinh nhân tạo và được đặt cho một hòn núi lửa trên mặt trăng.
Khi có đồng nghiệp an ủi về phát minh khoa học bị công kích dữ dội, nhà vi trùng học Paxtơ đã nói: Một nhà khoa học phải no lắng về những điều người ta sẽ nói về anh ta trong một thế kỷ, chứ không phải những lời khen chê bây giờ.
Nhà di truyền học Lương Đình Của, bỏ mặc sự lãnh đạm thở ơ của một số đồng nghiệp, kiên trì nghiên cứu áp dụng phương pháp di truyền học hiện đại vào công tác chọn giống. Sau nhiều năm, ông đã tạo cho nông nghiệp một số giống ngũ cốc và rau có giá trị thịnh hành.
Nhiều nhà khoa học còn chịu đựng gian khổ về vật chất vì sự nghiệp khoa học.
Nhà khoa học Béctơlô, người đã đóng góp cho hoá học những phát minh nổi tiếng của thế kỷ XIX, lưng còng vì đau cột sống, cả ngày làm việc trong phòng thí nghiệm lạnh lẽo và ẩm thấp – bản chất và tính chính xác của công trình nghiên cứu không cho phép sưởi ấm căn phòng – và ông dành cả tối và thưởng thức thâu đêm để tính toán.
Trong chiến tranh thế giới lần thứ hai, thành phố Lêningrat (Liên Xô) bị phong toả suốt 900 ngày. Các nhà thực vật học của viện nghiên cứu đã săn sàng nhận khẩu phầm hàng ngày là 30 hạt đậu nảy mần, bên cạnh họ là kho 15000 tấn lúa mỳ giống. Sưu tập giống lúa này do nhà di truyền học Vaviốp đã vượt năm châu bốn biển, xây dưng trong nhiều năm.
Các nhà thực vật học của viện sẵn sàng chết chứ không muốn động đến cái gia tài khoa học quý giá kia của tổ quốc.
Một nhược điểm của tuổi thanh niên là nôn nóng, dễ nản và có nhiệt tình “lửa rơm”. Nhược điểm này có thể chấp nhận phần nào trong các ngành hoạt động khác khoa học. Những muốn đi vào con đường khoa học, chúng ta phải cương quyết khác phục no. Sự nghiệp khoa học không phải chỉ đòi hỏi quả tim mà đòi hỏi bộ não, chủ yếu là bộ não.
Phải rèn luyện nghị lực từ lúc còn trẻ.
Khi ta đã kiểm tra được mọi hành động, chương trình phải được thực hiện không chậm trễ. Do suy nghĩ, ta sẽ nhìn rõ vấn đề, đặt vấn đặt vấn đề rõ ràng và có những ý niệm minh bạch.
Từ đấy, sẽ khởi động một tình cảm, một xúc động biểu hiện ở khí thế nhiệt tình, một tình cảm mãnh liệt muốn thành công. Chính lòng ham muốn cực độ sẽ thúc đẩy chúng ta hành động ngay, lòng ham muốn sẽ dẫn tới chỗ quyết tâm hoàn thành.
Khi đã có quyết tâm, ta sẽ không bị ảnh hưởng bởi người này hay sự vật kia.
Rèn luyện nghị lực phải bắt đầu bằng những việc hàng ngày bình thường nhất. Đã làm việc gì là làm cho chu đáo tỉ mỉ, kể cả những việc mình không thích lắm. Đã bắt đầu việc gì phải vượt mọi kho khăn làm tới cùng, không bao giờ bỏ dở.
Đã đặt kế hoạch làm việc, học tập, phải cố thực hiện đúng thời gian quy định.
Người ta kể lại, trong kháng chiến lần thứ nhất, trên đường đi thăm một đơn vị bộ đội, Bác Hồ gặp một con suối nước dâng to chảy cuồn cuộn. Vài người khuyên Bác trở lui, hoãn cuộc đi thăm tới ngày khác. Bác cương quyết chống gậy qua suối, không muốn để lỡ kế hoạch đã định.
Cùng với nghị lực, phải rèn luyện tính kiên trì vì nghị lực và kiên trì là cơ sở của mọi thành công.
Người thiếu kiên trì luôn luôn muốn thay đổi công việc vì cảm thấy không thích hợp. Thật ra đối với loại người này thì công việc mới nào cũng sẽ không thích hợp. Lòng ham thích công việc. Nếu công việc chưa thích hợp lắm, ta cứ kiên trì, sau một thời gian mới có thể đánh giá đúng đắn.
Đối với công việc không thích hợp, ta vẫn phải kiên trì, cố gắng sẽ lớn hơn. Và nghị lực do sự cố gắng này cũng được rèn luyện thêm một bước.
4.Năng khiếu
“Con người có thể làm được bất cứ điều gì mà một người khác đã làm được”
Năng khiếu cũng là đức tính bẩm sinh cần thiết để có thể phát huy được trong từng ngành khoa học.
Trí tuệ nào thích thú về tư duy trừu tượng và suy diễn lôgíc, có thể trở thành nhà toán học tốt. Trí tuệ tìm hiểu thiên nhiên, quan tâm tới tính trật tự trong thiên nhiên và có bàn tay khéo léo, có thể trở nên nhà khoa học tự nhiên tốt (hoá học, vật lý học, sinh học…)
Nếu sự thích thú này hướng về các loại sinh vật, họ có thể trở nên nhà sinh học tốt.
Một trí tuệ bình thường, thế nào cũng có một loại năng khiếu nào đó. Một nhiệm vụ quan trọng của giáo dục là phát hiện cho được loại năng khiếu này để hướng dẫn sự phát triển của người trẻ tuổi.
Lịch sử khoa học đã có nhiều thí dụ, nếu người thanh niên được đào tạo theo đúng năng khiếu, anh ta có thể trở thành nhà khoa học có tài. Còn nếu anh ta có trí tuệ thông minh xuất chúng thì sẽ trở thành thiên tài.
Nói chuyện với một nhà tâm lý học, Anxtanh đã thú nhận tâm lý học là một môn khoa học rất khó và ông đã cố công học mà không thể nào nắm vững được.
Nếu buộc phải học tâm lý học, chắc chắn Anxtanh sẽ chỉ trở thành nhà tâm lý học không tên tuổi.
Nhà bách khoa Đalămbe thích toán học từ năm 13 tuổi. Nhưng bố mẹ lại muốn cho con học y khoa vì bác sỹ lương cao và thu được nhiều tiền khám bệnh.
Nể lời bố mẹ, ông vào học trường thuốc nhưng nửa chừng bỏ dở vị không sao học nổi và trở lại môn toán học. Rút cục Đalămbe trở thành nhà bác học lớn ở thế kỷ XVIII. Cùng với Điđơrô, ông đã soạn 20 tập “Bách khoa toàn thư khoa học, nghệ thuật và công nghiệp”, trong đó ông viết phần vật lý học và toán học. Nhiều công thức vật lý học và toán học mang tên ông.
Nhà toán học Poatxông cũng vậy. Gia đình ép đi học nghề thuốc, nhưng cuối cùng ông bị đuổi vì bàn tay quá vụng về, chích mổ không khéo. Nhưng khi đọc một tờ báo toán học, Poatxông lại giải được hết bài toán này sang bài toán khác, và từ năm 17 tuổi, ông đã nổi tiếng về khả năng toán học hiếm có.
Giả thiết Poatxông cứ đeo đẳng nghề thuốc mãi, chắc ông sẽ trở thành “lang vườn” và cũng như Đalămbe, không có ích nhiều cho xã hội.
Hiện nay, có nhiều trường hợp chọn ngành nghề không dựa vào năng khiếu. Vì vậy, khi tốt nghiệp ra đời, người ta không thành người lao động tốt, lại càng không thành người lao động ưu tú trong các ngành đã được đào tạo.
Các thầy giáo ở phổ thông có trách nhiệm phát hiện các năng khiếu của học sinh để sau này hướng các em vào ngành nghề cho thích hợp.
Trong hồi ký, nhà toán học Laurentiép đã có nêu là, khi học ở phổ thông, anh cũng có năng khiếu về hoạ và nhạc bên cạnh năng khiếu về toán học và anh đã có ý định đi sâu vào nghệ thuật. Nhưng cô giáo đã phát hiện được triển vọng của các năng khiếu trên, cô nói với anh: Nếu về sau em không đi vào toán học, em sẽ không gặp cô nữa. Laurentiép nghe theo lời khuyên đó.
Sau khi vào trường đại học tổng hợp Matxcơva (Liên Xô), Laurentiép chỉ học chương trình khoa toán lý mất 3,5 năm (chứ không phải 6 năm), trong khi đang là sinh viên đã là giảng viên của trường trường Cao đẳng kỹ thuật Matxơva, 29 tuổi là giáo sư đại học, 34 tuổi đạt học vị tiến sỹ khoa học kỹ thuật, 35 tuổi đạt học vị tiến sỹ toán học và 40 tuổi là viện sĩ viện hàn lâm khoa học Liên Xô.
Năng khiếu coi như hạt giống cây, nếu gieo vào mảnh đất thích hợp, nó sẽ nảy mầm thành cây rồi ra hoa kết quả. Nếu gieo vào mảnh đất không thích hợp, nó sẽ thui đi hoặc trở thành cây non còi cọc.
Gia đình và nhà trường có trách nhiệm quan trọng trong việc hướng nghiệp cho các người trẻ tuổi. Đất nước có thiên tài hay không, có nhân tài nhiều hay ít, là tuỳ thuộc trách nhiệm của người lớn đối với thế hệ tương lai.